Quy định này được thể hiện tại Thông tư số 21/2016/TT-BNNPTNT ngày 28/6/2016 Thông tư Quy định về khai thác chính và tận dụng, tận thu lâm sản.

{关键字}

Các hộ dân không tự thực hiện được việc đo đếm này và khi bắt buộc thực hiện thì họ chỉ có thể ước lượng một cách thiếu cơ sở tính toán cho trữ lượng mà phải kê khai vào bảng (Ảnh: Rừng trồng tại Quảng Ninh )

Quy định thiếu cơ sở

Tuy nhiên, theo tìm hiểu của PV tại các tỉnh như: Hòa Bình, Quảng Ninh, Bình Định… cho thấy, những quy định của thông tư đang “vượt tầm” của các hộ trồng rừng. Bởi lẽ, phần lớn các hộ dân tham gia trồng rừng là đồng bào dân tộc thiểu số (chiếm 54,58%) trình độ học vấn thấp. Vì vậy, họ không có đủ năng lực tự mình tìm hiểu và nắm rõ được đầy đủ các quy định, thủ tục trong các văn bản pháp luật.

Bên cạnh đó, gỗ rừng trồng được các hộ khai thác chủ yếu là gỗ nhỏ, mật độ trồng rừng cao (mật độ > 2000 cây/ha), địa hình rừng trồng lại bị chia cắt khiến việc xác định khối lượng khai thác rất khó khăn. Điều này đã khiến cho các hộ dân không tự thực hiện được việc đo đếm này và khi bắt buộc thực hiện thì họ chỉ có thể ước lượng một cách thiếu cơ sở tính toán cho trữ lượng mà phải kê khai vào bảng.

Trên thực tế, theo tìm hiểu của PV, năm 2011, Bộ NN- PTNT đã ban hành Thông tư 35/2011/TT – BNNPTNT, ngày 20/5/2011 hướng dẫn thực hiện khai thác, tận thu gỗ và lâm sản ngoài gỗ. Năm 2012, Bộ lại tiếp tục ban hành Thông tư 01/2012/TT – BNNPTNT ngày 04/01/2012 nhằm kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc gỗ, tạo thuận lợi khi lưu thông ra thị trường trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, khi áp dụng thực tế cho các hộ gia đình trồng và khai thác rừng đã bộc lộ nhiều bất cập. Trong đó, nổi cộm là việc lập bảng dự kiến sản phẩm phù hợp với năng lực thực hiện của hộ gia đình khiến người trồng rừng, khai thác gỗ gặp khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu về xin phép và kê khai sản lượng khai thác.

Tháng 6/2012 Bộ NN - PTNT lại tiếp tục ban hành Thông tư 21/2016/TT – BNNPTNT ngày 28/6/2016 thay thế Thông tư 35. Điểm mới của thông tư này là việc không yêu cầu lập bản dự kiến khai thác. Tuy nhiên, tại khoản b, mục 1 Điều 6 của Thông tư 21 về khai thác chính, tận dụng, tận thun có quy định rừng trồng “trước khi khai tác…chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng gửi bảng kê lâm sản đến ủy ban nhân dân cấp xã”. Điều này, được hiểu ngay cả khi không còn yêu cầu lập bản dự kiến khai thác, chủ rừng vẫn phải gửi bản kê lâm sản đến UBND xã trước khi khai thác. Vì vậy, vấn đề bảng kê vô hình chung vẫn không được giải quyết dứt điểm.
Bên cạnh đó, tại khoản b, mục 1, Điều 6, Thông tư 21 tiếp tục căn cứ vào trữ lượng gỗ báo cáo trước khai thác để làm cơ sở cho các cơ quan chức năng theo dõi, giám sát, xác nhận nguồn gốc lâm sản. Điều này theo chuyên gia lâm nghiệp Vũ Long là thiếu cơ sở, bởi lẽ, trữ lượng gỗ sau khai thác luôn có sự sai khác rất lớn so với con số dự kiến khai thác. Việc không kê khai bảng dự kiến sản phẩm sẽ gây ra rất nhiều hệ lụy, trong đó, ảnh hưởng lớn nhất đó là việc làm chậm tiến trình tham gia Hiệp định thương mại song phương ký giữa EU với quốc gia đối tác xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ, theo đó: Quốc gia đối tác cam kết chỉ xuất khẩu vào EU gỗ và các sản phẩm gỗ hợp pháp… khi phải đáp ứng đầy đủ các quy định để xuất khẩu gỗ sang Châu Âu.

Loại bỏ bảng kê lâm sản trước khai thác

Ở một góc cạnh khác, theo bà Nguyễn Thị Bảy – Cty TNHH Hoàng Phát, với đặc thù bán hàng nội thất của các làng nghề (đơn cử như làng nghề Hữu Bằng, Thạch Thất, Hà Nội) mỗi ngày có thể bán tới hàng ngàn sản phẩm nhỏ lẻ, thời gian bán 24/24. Thế nhưng, theo quy định, tại thông tư, mỗi sản phẩm khi muốn bán đều phải xin xác định nguồn gốc xuất xứ của gỗ, điều đáng nói, gỗ được các hộ gia đình dùng để đóng hàng nội thất đều là gỗ nhập khẩu từ Châu âu có nguồn gốc và giấy tờ hợp pháp. Vậy câu hỏi đặt ra, mỗi khi bán sản phẩm các hộ dân đều phải chạy tới cơ quan kiểm lâm để xin giấy xác nhận liệu có bất cập? - bà Bảy đặt vấn đề.

Chia sẻ về vấn đề này, ông Nguyễn Quang Tân – Chuyên gia Trung tâm phát triển nông thôn bền vững cho rằng, cần phải có điều chỉnh các quy định. Trong đó, phải loại bỏ bảng kê lâm sản khỏi yêu cầu báo cáo trước khai thác và đưa bảng kê lâm sản sau khai thác làm cơ sở để theo dõi, giám sát trữ lượng gỗ được khia thác và thu thuế sử dụng đất. Ngoài ra cần phải tăng cường hơn nữa năng lực và nhận thức cho người dân về các yêu cầu cần được thực hiện khi tuân thủ các quy định của pháp luật. Đồng thời tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chức năng và người dân trong việc kiểm tra, giám sát giúp người dân thuận tiện trong việc thực thi các quy định của pháp luật.